Điều gì xảy ra sau khi FED nâng lãi suất? Khi tăng lãi suất nền kinh tế Mỹ có thể bị đẩy vào một cuộc suy thoái, nhu cầu nhập khẩu toàn cầu lao dốc, sự tăng trưởng nền kinh tế thế giới cũng bị ảnh hưởng không kém. Vậy những sự ảnh hưởng đó cụ thể như thế nào? Cùng đánh giá sàn tìm hiểu ở bài viết sau.
Chuyện gì sẽ xảy ra sau khi Fed tăng lãi suất?
Việc tăng lãi suất của Fed có thể hạn chế lạm phát, nhưng nó sẽ khiến người Mỹ gánh nặng hơn khi nói đến các khoản vay và xe hơi và khiến nhiều quốc gia khác cũng tăng lãi suất.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đang đẩy mạnh cuộc chiến chống lạm phát. Vào ngày 15 tháng 6, cơ quan này đã công bố tăng lãi suất tham chiếu lên 75 điểm cơ bản (0,75%) – mạnh nhất kể từ năm 1994. Vào tháng 5, họ cũng tăng lãi suất lên 0,5% – cao. nhiều nhất trong 22 năm.
Sự gia tăng liên tục về lãi suất cho thấy Fed tự tin vào thị trường lao động Hoa Kỳ. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng lãi suất cũng làm dấy lên lo ngại rằng chi phí sinh hoạt của con người và doanh nghiệp sẽ được đẩy lên.
Lạm phát đạt mức cao 40 năm vào tháng 5 có thể buộc Fed tăng lãi suất thêm nhiều lần trong những tháng tới. Thậm chí, các quan chức Fed có thể phải tăng lãi suất mạnh hơn để kiềm chế lạm phát.
Người Mỹ sẽ cảm thấy tác động của sự thay đổi này. Họ sẽ không còn có thể nhận được các khoản vay lãi suất cực thấp khi mua nhà hoặc xe hơi. Nhưng tiền tiết kiệm trong tài khoản ngân hàng cũng sẽ sinh lời.
Fed có thể tăng tốc hoặc làm chậm nền kinh tế bằng cách điều chỉnh lãi suất. Khi đại dịch xuất hiện, Fed gần như giảm lãi suất xuống 0% để khuyến khích mọi người chi tiêu và các doanh nghiệp đầu tư. Để hỗ trợ thêm cho nền kinh tế, Fed đã đưa hàng nghìn tỷ đô la vào thị trường. Khi thị trường tín dụng đóng băng vào tháng 3 năm 2020, Fed cũng ra mắt các công cụ tín dụng khẩn cấp.
Các chính sách cứu trợ của Fed đã phát huy tác dụng. Không có khủng hoảng tài chính do Covid-19. Vắc xin và chi tiêu quốc hội khổng lồ đã mở đường cho sự phục hồi nhanh chóng. Tuy nhiên, thực tế là các chính sách đã được đưa ra một cách khẩn cấp, nhưng chưa được gỡ bỏ, khiến nền kinh tế phát triển quá nóng như bây giờ.
Tỷ lệ thất nghiệp của Hoa Kỳ là gần mức thấp nhất 50 năm. Nhưng lạm phát rất cao. Nền kinh tế Mỹ do đó không còn cần nhiều hỗ trợ từ Fed. Rủi ro duy nhất là nếu Fed quá tích cực, nền kinh tế sẽ bị chậm lại đến mức rơi vào suy thoái và tình trạng thất nghiệp tăng cao.
Lãi suất vay ở Mỹ sẽ tăng
Tỷ lệ tham chiếu của Fed áp dụng cho các khoản vay qua đêm liên ngân hàng. Mặc dù đây không phải là mức lãi suất mà người tiêu dùng phải trả, nhưng động thái của Fed vẫn có thể ảnh hưởng đến lãi suất cho vay và tiết kiệm mà họ tiếp xúc hàng ngày.
Mỗi lần Fed tăng lãi suất, nó trở nên đắt hơn để vay. Điều này có nghĩa là mọi khoản vay, từ việc mua một ngôi nhà, đến mua xe, đến thẻ tín dụng, cho đến các khoản vay sinh viên, sẽ có giá cao hơn. Chi phí vay cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cao hơn.
Tác động dễ thấy nhất là thị trường cho vay mua nhà. Lãi suất cao đã làm chậm doanh số bán nhà. Lãi suất cho vay mua nhà kỳ hạn 30 năm tại Mỹ đã tăng lên 5,23% trong tuần đầu tiên của tháng Sáu. Con số này cao hơn đáng kể so với chỉ 3% của cùng kỳ năm ngoái.
Lãi suất tăng sẽ làm cho việc mua nhà khó khăn hơn. Giá nhà ở Mỹ đã tăng vọt trong đại dịch. Nhu cầu yếu hơn có thể làm mát thị trường bất động sản của đất nước. Giá nhà trung bình ở Mỹ vào tháng 4 đã tăng 15% so với một năm trước lên 391.200 đô la, theo Hiệp hội Realtor của Hoa Kỳ.
Lãi suất có thể tăng bao nhiêu?
Các nhà đầu tư hiện mong đợi Fed tăng mục tiêu lãi suất của mình lên ít nhất 3,75% vào cuối năm nay. Fed đã tăng lãi suất lên 2,37% trong lần tăng lãi suất cuối cùng vào cuối năm 2018. Trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2009, con số này thậm chí đã đạt 5%.
Vào những năm 1980, chủ tịch sau đó là Paul Volcker đã tăng lãi suất lên mức chưa từng có để kiềm chế lạm phát. Đến tháng 7 năm 1981, tỷ lệ tham chiếu của Fed đã chạm mức 22%.
Tuy nhiên, tác động đến lãi suất cho vay trong những tháng tới sẽ phụ thuộc chủ yếu vào mức tăng lãi suất của Fed. Nhưng điều này vẫn chưa quyết định.
Tin tốt cho người gửi tiết kiệm
Việc Fed duy trì lãi suất gần 0% trong 2 năm khiến người tiết kiệm kiếm được hầu như không có gì. Nếu trừ đi lạm phát, họ thậm chí còn bị lỗ.
Tin tốt là tỷ lệ tiết kiệm sẽ tăng khi Fed tăng tỷ lệ tham chiếu. Nhưng điều này cần có thời gian. Trong nhiều trường hợp, đặc biệt là với các ngân hàng lớn, tác động sẽ khó thấy trong một sớm một chiều. Bên cạnh đó, dù đã qua nhiều đợt tăng lãi suất nhưng lãi suất tiết kiệm vẫn ở mức rất thấp, thấp hơn cả lạm phát và lợi nhuận trên thị trường chứng khoán.
Thị trường sẽ phải điều chỉnh
Lãi suất thấp hạn chế nhu cầu đối với trái phiếu chính phủ và đẩy các nhà đầu tư vào tài sản rủi ro, như cổ phiếu. Tuy nhiên, lãi suất cao cũng là một thách thức đối với thị trường chứng khoán, tất cả đều quá quen thuộc – nếu không nghiện – tiền rẻ.
Chứng khoán Mỹ rơi vào thị trường rớt giá, do lo ngại rằng một đợt tăng lãi suất mạnh của Fed sẽ kéo nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái. Tuy nhiên, phần lớn tác động này sẽ phụ thuộc vào việc Fed tăng lãi suất nhanh như thế nào và lợi nhuận kinh tế và doanh nghiệp cơ bản dao động như thế nào sau đó.
Ít nhất, tăng lãi suất cũng có nghĩa là thị trường chứng khoán sẽ phải cạnh tranh nhiều hơn so với trái phiếu chính phủ.
Lạm phát ở Mỹ sẽ hạ nhiệt?
Mục tiêu của Fed khi tăng lãi suất là kiểm soát lạm phát mà không ảnh hưởng đến sự phục hồi của thị trường việc làm. Lạm phát ở Mỹ trong tháng 5 tăng 8,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là tốc độ nhanh nhất kể từ tháng 12 năm 1981, theo Bộ Lao động Hoa Kỳ. Lạm phát hiện còn xa so với mục tiêu 2% của Fed và đã trở nên tồi tệ hơn trong những tháng gần đây.
Các nhà kinh tế cảnh báo rằng lạm phát có thể còn cao hơn khi giá xăng ở Mỹ gần đây đạt đỉnh. Giá xăng dầu tại nước này tăng nhanh sau khi Nga tiến hành chiến dịch quân sự ở Ukraine.
Mọi mặt hàng ở Mỹ, từ thực phẩm, năng lượng đến kim loại, đều trở nên đắt đỏ hơn. Chi phí sinh hoạt cao đang khiến hàng triệu người Mỹ đau đầu. Niềm tin của người tiêu dùng đang ở mức thấp kỷ lục. Tỷ lệ chấp thuận của Tổng thống Mỹ Joe Biden cũng rất thấp.
Các chính sách của Fed cần có thời gian để phát huy tác dụng. Tuy nhiên, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như cuộc xung đột ở Ukraine, sự gián đoạn chuỗi cung ứng và thậm chí cả Covid-19.
Tác động toàn cầu
Việc Fed tăng lãi suất có thể gây ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới, vì lạm phát của Mỹ đã khiến thị trường chứng khoán bán tháo. “Theo một nghĩa nào đó, Fed là ngân hàng trung ương toàn cầu, và có thể gây ra một cuộc suy thoái toàn cầu”, Kristina Hooper, chiến lược gia thị trường trưởng tại Invesco cho biết trên CNBC.
Hooper kỳ vọng Mỹ sẽ tránh được suy thoái và Fed sẽ thành công trong việc giúp nước này hạ cánh nhẹ nhàng. Tuy nhiên, bà cũng thừa nhận nền kinh tế Mỹ đang tăng trưởng chậm lại đáng kể và việc “hạ cánh mềm” ngày càng khó khăn.
Nhà kinh tế nổi tiếng Kenneth Rogoff hồi tháng 4 cũng chỉ ra rằng suy thoái kinh tế ở Mỹ, đặc biệt là do lãi suất tăng, sẽ kìm hãm nhu cầu nhập khẩu toàn cầu và giáng một đòn mạnh vào thị trường tài chính. .
Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng trung ương khác cũng có thể tăng lãi suất theo Fed. Tuần trước, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) xác nhận rằng họ sẽ tăng lãi suất chủ chốt thêm 0,25% trong các cuộc họp tháng 7 và tháng 9. Carsten Brzeski, giám đốc vĩ mô tại ngân hàng ING, cho biết trên CNBC: “Rõ ràng là đồng USD mạnh hơn và đồng euro yếu hơn sẽ khiến các quan chức ECB lo ngại.
Chiến lược gia Geoffrey Yu cho biết: “So với các quốc gia phụ thuộc nhiều vào thương mại như Thụy Sĩ, Nhật Bản, khu vực đồng euro và nhiều nền kinh tế mới nổi, nền kinh tế Mỹ ít nhạy cảm hơn với các điều kiện tài chính thắt chặt. Chiến lược gia thị trường tại BNY Mellon cho biết: “Hàng hóa toàn cầu được định giá bằng USD. Vì vậy, quan điểm của các nước trên là trong tình hình hiện tại, một USD mạnh là không tốt”.
Yu cho rằng việc Fed tăng lãi suất có thể giúp các ngân hàng trung ương ở châu Âu, Thụy Sĩ và Nhật Bản có thêm dư địa để thắt chặt các chính sách hỗ trợ đồng nội tệ.
Tháng trước, sau khi Fed tăng lãi suất, Hồng Kông và các quốc gia vùng Vịnh khác – đã cố định tiền tệ của họ với đô la Mỹ – cũng có động thái tương tự. Cơ quan Tiền tệ Hồng Kông (HKMA) ngày 4/5 đã nâng lãi suất cơ bản từ 0,75% lên 1,25%. Trong khi đó, Ả Rập Xê Út, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE), Qatar và Bahrain cộng 0,5%.
Tuy nhiên, vào tháng 4, Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Kristalina Georgieva cảnh báo Fed và các ngân hàng trung ương khác “hãy suy nghĩ kỹ về những rủi ro lây lan đối với các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển vốn dễ bị tổn thương”.
Nguyên nhân là do điều này có thể làm thay đổi dòng vốn đầu tư toàn cầu, khiến dòng vốn rời các nước nghèo chảy sang Mỹ. Điều này sẽ đẩy giá đô la Mỹ lên và đẩy giá các đồng tiền khác xuống. Để bảo vệ đồng nội tệ, các nước này cũng có thể tăng lãi suất, gây ra những hậu quả như tăng trưởng chậm lại, xóa sổ nhiều việc làm và các doanh nghiệp ngại vay. Các chính phủ mắc nợ cũng sẽ phải chi nhiều hơn cho việc trả nợ, do đó sẽ ảnh hưởng đến ngân sách cho những việc như chống lại dịch bệnh hoặc xóa đói giảm nghèo.